Danh sách sau đây bao gồm những tiền đạo đã biến khả năng thiên bẩm của họ ở những lĩnh vực này thành công rực rỡ ở Premier League. Hãy cùng xoilac tìm hiểu về tiền đạo xuất sắc nhất Premier League qua bài viết dưới đây
Luis Suárez
- Câu lạc bộ Ngoại hạng Anh: Liverpool (2011-2014)
- Số lần xuất hiện: 110
- Bàn thắng: 69 (0,63)
- Kiến tạo: 23 (0,21)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,84
Luis Suárez, một trong những cầu thủ bóng đá bị ghét nhất , đã mang những trò hề gây tranh cãi của mình đến Premier League vào năm 2011 và rời đi chưa đầy 4 năm sau đó. Nếu anh ấy ở lại lâu hơn, tỷ lệ tạo bàn thắng của anh ấy (ngang bằng với Agüero) có thể đã mang lại cho anh ấy một di sản lớn hơn và vị trí cao hơn trong danh sách này.
Suárez chỉ giành được một League Cup với Liverpool, nhưng anh đã giành được hơn chục danh hiệu cùng Barcelona. Về mặt cá nhân, anh là Cầu thủ xuất sắc nhất Premier League năm 2014, giành Chiếc giày vàng cùng năm (31 bàn) và hai lần có tên trong ‘Đội hình PFA của năm’. Anh cũng có hơn 130 lần khoác áo Uruguay và vô địch Copa América 2011.
Suárez là một tiền đạo giỏi nhưng thể lực. Đôi chân nhanh nhẹn, khả năng rê bóng, khả năng kiểm soát chặt chẽ và di chuyển của anh ấy cho phép anh ấy vượt qua các hậu vệ trên đường tới khung thành, nơi anh ấy có thể dứt điểm bằng cả hai chân. Anh ấy cũng là một người chuyền bóng chính xác, với tầm nhìn và tốc độ làm việc để đóng góp đáng kể vào lối chơi của đồng đội.
Wayne Rooney
- Câu lạc bộ Ngoại hạng Anh: Everton (2002-2004, 2017-2018), Manchester United (2004-2017)
- Số lần xuất hiện: 491
- Bàn thắng: 208 (0,42)
- Kiến tạo: 103 (0,21)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,63
Với số đường kiến tạo cao thứ ba trong lịch sử Premier League (sau Ryan Giggs và Cesc Fàbregas), không nên đánh giá thấp đóng góp sáng tạo của Wayne Rooney. Anh ấy cũng là người ghi nhiều bàn thắng thứ ba (sau Alan Shearer và Harry Kane), và cú đá từ trên cao của anh ấy vào lưới Manchester City năm 2011 thực sự ngoạn mục (xem 5:21 trong video).
Rooney phát triển sớm và phá nhiều kỷ lục ghi bàn ở cấp độ trẻ. Anh được Everton chú ý và trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất của họ (16 tuổi). Tại Manchester United, Rooney đã giành được 5 chức vô địch Premier League, 1 FA Cup, 3 League Cup, Champions League 2008 và Europa League 2017.
Về mặt cá nhân, Rooney là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải năm 2010 và ba lần lọt vào Đội hình PFA của năm. Anh ấy cũng đã có 120 lần khoác áo đội tuyển Anh và là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển Anh cũng như Manchester United, mặc dù đôi khi anh ấy thấy mình tham gia xây dựng hàng tiền vệ tấn công hơn là dứt điểm chúng.
Rooney kết hợp thể lực, sức bền và khả năng sút xa uy lực với trình độ kỹ thuật cao, khả năng sáng tạo và những đường chuyền dài. Kể từ khi giải nghệ, Rooney đã trở thành huấn luyện viên bóng đá.
Ruud van Nistelrooy
- Câu lạc bộ Premier League: Manchester United (2001-2006)
- Số lần xuất hiện: 150
- Bàn thắng: 95 (0,63)
- Kiến tạo: 14 (0,09)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,73
Ruud van Nistelrooy thường xuyên ghi bàn cho PSV Eindhoven ở giải VĐQG Hà Lan, nhưng việc anh đến Manchester United đã bị trì hoãn một năm do chấn thương đầu gối vào phút cuối.
Tại Old Trafford, van Nistelrooy đã giành được một Premier League, FA Cup và League Cup trong 5 mùa giải trước khi rời Real Madrid. Anh đặc biệt ghi được nhiều bàn thắng ở Champions League và đã ghi 150 bàn sau 219 trận trên mọi đấu trường cho United (0,68).
Về mặt cá nhân, van Nistelrooy là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải năm 2003, giành Chiếc giày vàng cùng năm (25 bàn thắng) và hai lần lọt vào ‘Đội hình PFA của năm’. Anh cũng đã chơi 70 lần cho Hà Lan.
Van Nistelrooy được biết đến như một “kẻ săn trộm” cơ hội và sung mãn, hoạt động chủ yếu trong vòng cấm, nơi anh sử dụng sức mạnh, khả năng di chuyển, dự đoán và khả năng không chiến của mình để đạt hiệu quả tốt. Sau khi giải nghệ vào năm 2012, ông trở thành huấn luyện viên và quản lý bóng đá.
Eric Cantona
- Các câu lạc bộ ở Premier League: Leeds United (–1992), Manchester United (1992-1997)
- Số lần xuất hiện: 156
- Bàn thắng: 70 (0,45)
- Kiến tạo: 56 (0,36)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,81
Eric Cantona đã chơi ở Pháp 9 năm trước khi gia nhập Leeds vào năm 1992. Anh nhanh chóng bất hòa với huấn luyện viên Howard Wilkinson và chuyển đến Manchester United, nơi anh vẫn tiếp tục gây hấn và đôi khi có hành vi phi thể thao. Tuy nhiên, anh ấy cũng ghi được một số bàn thắng đáng chú ý (ví dụ: 10:06 trong video).
‘King Eric’ đã giành được 4 chức vô địch Premier League và 2 FA Cup trong 5 mùa giải khoác áo United. Anh cũng từng giành chức vô địch cùng Leeds (trước Premier League). Anh ấy đã một lần lọt vào ‘Đội bóng PFA của năm’, có nhiều đường kiến tạo nhất trong một mùa giải ở Premier League hai lần và có 45 lần khoác áo đội tuyển Pháp.
Kỹ thuật, khả năng kiểm soát bóng khéo léo, tư duy nhanh và tầm nhìn của Cantona có nghĩa là anh ấy đôi khi được sử dụng như một tiền đạo lùi sâu, mặc dù thể lực và khả năng dứt điểm của anh ấy phục vụ tốt cho anh ấy ở vai trò một tiền đạo. Sau khi bất ngờ giã từ bóng đá, ở tuổi 30, Cantona bắt tay vào sự nghiệp diễn viên.
Dennis Bergkamp
- Các câu lạc bộ ở Premier League: Arsenal (1995-2006)
- Số lần xuất hiện: 315
- Bàn thắng: 87 (0,28)
- Kiến tạo: 94 (0,30)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,57
Giống như Cantona, Dennis Bergkamp là một tiền đạo lùi sâu, người đã ghi một trong những bàn thắng vĩ đại nhất lịch sử Premier League (8:01 trong video), mặc dù anh chưa bao giờ được sử dụng ở vị trí tiền đạo chủ lực.
Trước Arsenal, Bergkamp từng gặt hái thành công cùng Ajax (giành hai danh hiệu châu Âu), sau đó là hai năm đáng thất vọng với Inter Milan. Arsène Wenger đã giúp Bergkamp xây dựng lại sự nghiệp của mình tại Arsenal, nơi anh giành được ba chức vô địch Premier League (bao gồm cả mùa giải bất bại của ‘Invincibles’ 2003–04) và bốn FA Cup.
Về mặt cá nhân, Bergkamp đã lọt vào ‘Đội PFA của năm’, có nhiều đường kiến tạo nhất ở Premier League và lọt vào chung kết Quả bóng vàng năm 1993. Anh cũng đã chơi 79 lần cho Hà Lan.
Bergkamp là tiền đạo có năng khiếu kỹ thuật và sâu sắc nhất trong danh sách này. Anh ấy nổi tiếng với khả năng sáng tạo, kiểm soát bóng, lối chơi liên kết, chuyền bóng và tầm nhìn, những điều mà anh ấy đã từng phát huy tốt vai trò là một tiền vệ kiến thiết lối chơi. Sau khi giải nghệ, Bergkamp làm huấn luyện viên.
Didier Drogba
- Các câu lạc bộ ở Premier League: Chelsea (2004-2012, 2014-2015)
- Số lần xuất hiện: 254
- Bàn thắng: 104 (0,41)
- Kiến tạo: 55 (0,22)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,63
Didier Drogba gần như chưa bao giờ thành công trong việc trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp ở Pháp. Anh ấy mới 21 tuổi trước khi đủ sức khỏe để tập luyện thường xuyên và 24 tuổi trước khi trở thành cầu thủ ghi bàn thường xuyên. Khi anh ấy nhận ra tiềm năng của mình, anh ấy đã chuyển đến Marseille và sau đó là chuyển đến Chelsea.
Tại Chelsea, Drogba đã giành được 4 chức vô địch Premier League, 4 FA Cup, 3 League Cup và 1 Champions League 2012. Dù thi đấu không ổn định nhưng Drogba có đủ khả năng để vươn lên đến đỉnh cao, với 9 bàn thắng trong 9 trận chung kết cúp quốc gia (thắng 8). ) và nhiều trận đấu với các ứng cử viên vô địch.
Drogba đã giành Chiếc giày vàng năm 2007 (20 bàn) và 2010 (29 bàn), thực hiện nhiều đường kiến tạo nhất năm 2006 và hai lần lọt vào ‘Đội PFA của năm’. Anh đã chơi 105 trận cho Bờ Biển Ngà.
Drogba nổi tiếng với sức mạnh, tầm vóc, thể lực, khả năng không chiến, sút uy lực và đá phạt cũng như khả năng “giữ” bóng và đưa đồng đội vào sân kể từ khi giã từ bóng đá vào năm 2018 (ở tuổi 40), Drogba đã đóng góp cho một số hoạt động từ thiện.
Harry Kane
- Các câu lạc bộ ở Premier League: Tottenham (2012–)
- Số lần xuất hiện: 320
- Bàn thắng: 213 (0,67)
- Kiến tạo: 46 (0,14)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,81
Harry Kane gia nhập Tottenham năm 2004 (11 tuổi), lên đội một năm 2009, ra mắt Premier League năm 2012 (sau vài lần cho mượn) và ghi bàn thắng đầu tiên vào năm 2014.
Kể từ mùa giải 2014–15, Kane là cầu thủ ghi bàn thường xuyên, ghi 17 bàn trở lên trong 9 chiến dịch liên tiếp. Anh là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho một câu lạc bộ trong lịch sử Premier League và là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai mọi thời đại (sau Alan Shearer).
Kane chưa giành được danh hiệu nào cùng Tottenham dù từng giành Chiếc giày vàng vào các năm 2016 (25 bàn), 2017 (29 bàn) và 2021 (23 bàn), đồng thời 5 lần lọt vào danh sách ‘Đội hình PFA của năm’. Anh ấy đã có hơn 80 lần khoác áo đội tuyển Anh.
Kane là người có nhiều đường kiến tạo nhất vào năm 2021 (14) và nổi tiếng với lối chơi liên kết, tầm nhìn và khả năng chuyền bóng. Mặc dù là một tiền vệ mục tiêu nhưng Kane vẫn bố trí ở vị trí tiền vệ để thực hiện những đường chuyền dài cho các cầu thủ nhanh hơn. Anh còn được biết đến với khả năng không chiến, tốc độ làm việc và những cú sút uy lực, chính xác.
Sergio Aguero
- Các câu lạc bộ ở Premier League: Manchester City (2011-2021)
- Số lần xuất hiện: 275
- Bàn thắng: 184 (0,67)
- Hỗ trợ: 47 (0,17)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,84
Sergio Agüero mới 15 tuổi khi ra mắt đội tuyển Argentina. Ở tuổi 17, anh ghi bàn thường xuyên và được chuyển đến Atlético Madrid, nơi anh vô địch Europa League 2010. Một năm sau, anh gia nhập Manchester City, ở tuổi 23.
Trong 10 mùa giải khoác áo Man City, Agüero đã giành được 5 chức vô địch Premier League, 1 FA Cup và 6 League Cup. Anh đã giành Chiếc giày vàng năm 2015 (26 bàn) và hai lần có mặt trong “Đội hình PFA của năm”. Anh là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ năm trong lịch sử Premier League và có nhiều hat-trick nhất (12). Anh cũng đã vô địch Copa América 2021 cùng Argentina và có 101 lần khoác áo đội tuyển.
Agüero là một cầu thủ điêu luyện với đôi chân nhanh nhẹn, trọng tâm thấp và khả năng ghi bàn bằng cả hai chân. Khả năng tăng tốc và rê bóng của anh ấy đã giúp anh ấy đánh bại các hậu vệ một cách dễ dàng, nhưng việc di chuyển và chọn vị trí của anh ấy thường khiến anh ấy không cần phải làm vậy. Ông giải nghệ vào cuối năm 2021 vì vấn đề sức khỏe.
Alan Shearer
- Các câu lạc bộ ở Premier League: Blackburn (1992-1996), Newcastle (1996-2006)
- Số lần xuất hiện: 441
- Bàn thắng: 260 (0,59)
- Hỗ trợ: 64 (0,15)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,73
Alan Shearer gia nhập đội trẻ Southampton năm 1986 (16 tuổi) và lập hat-trick trong trận ra mắt chính thức 2 năm sau đó. Tuy nhiên, anh ấy đã phải vật lộn để ghi bàn trong ba mùa giải tiếp theo. Khi điều đó thay đổi, anh chuyển đến Blackburn Rovers cho mùa giải khai mạc Premier League.
Với Blackburn, Shearer giành được danh hiệu lớn duy nhất của mình: Premier League năm 1995. Sau khi gia nhập câu lạc bộ quê hương Newcastle, anh lọt vào hai trận chung kết FA Cup, nhưng để thua Arsenal và Manchester United. Anh cũng đã chơi 63 lần cho đội tuyển Anh.
Về mặt cá nhân, Shearer đã giành Chiếc giày vàng ba năm liên tiếp (1995–97; với 34, 31 và 25 bàn thắng), là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải năm 1995 và có tên trong Đội hình PFA của năm. » sáu lần (tại thời điểm giải Ngoại hạng Anh). Anh là người ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử Premier League và nhiều bàn thắng nhất trong một trận đấu (5).
Giống như Drogba, Shearer là một mục tiêu vững chắc với khả năng không chiến đặc biệt, khả năng giữ bóng và những cú sút mạnh mẽ, chính xác. Kể từ khi nghỉ hưu vào năm 2006, Shearer đã trở thành một chuyên gia truyền hình thành công.
Thierry Henry
- Các câu lạc bộ ở Premier League: Arsenal (1999-2007, 2012)
- Số lần xuất hiện: 258
- Bàn thắng: 175 (0,68)
- Kiến tạo: 74 (0,29)
- Tổng tỷ lệ tạo mục tiêu: 0,97
Theo như thông tin từ xoilac1 chia sẻ thì Thierry Henry bắt đầu sự nghiệp ở Pháp năm 17 tuổi tại Monaco của Arsène Wenger. Anh chơi ở cánh, mặc dù Wenger biết anh sẽ trở thành tiền đạo. Sau khi vô địch Pháp, Henry chuyển đến Ý và trải qua 8 tháng không thành công với Juventus trước khi Wenger ký hợp đồng với Arsenal.
Henry chơi ở vị trí tiền đạo cho Arsenal và giành được hai chức vô địch Premier League (bao gồm cả mùa giải ‘Invincibles’) và hai FA Cup trước khi rời Barcelona (giành được ‘sáu’ danh hiệu ở đó vào năm 2009). Anh cũng đã chơi 123 lần cho tuyển Pháp, vô địch World Cup 1998 và Euro 2000.
Trong 5 mùa giải liên tiếp, Henry ghi 24 bàn trở lên ở Premier League, lập kỷ lục 4 lần giành Chiếc giày vàng. Anh cũng là người thực hiện nhiều pha kiến tạo nhất năm 2003 (20; kỷ lục chung), là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải 2004 và 2006, là thành viên của “Đội hình PFA của năm” sáu lần (liên tiếp) và là Quả bóng vàng. . Hoặc phó vô địch năm 2003.
Henry nổi tiếng với tốc độ và sự điềm tĩnh khi chạy phía sau hàng phòng ngự để ghi bàn bằng những cú đánh tầm thấp và chính xác. Khả năng kỹ thuật của anh ấy cho phép anh ấy ghi bàn từ xa, từ những quả đá phạt hoặc sau khi lừa bóng qua các hậu vệ. Anh ấy cũng có rất nhiều pha kiến tạo khi di chuyển xuống cánh trái. Sau khi nghỉ hưu vào năm 2014, Henry trở thành huấn luyện viên và quản lý bóng đá.
Trên đây là những thông tin về tiền đạo xuất sắc nhất Premier League mà chúng tôi muốn gửi đến các bạn. Những thông tin trên hy vọng giúp bạn hiểu hơn về vấn đề này. Cảm ơn bạn đã đọc bài viết